MƯỜI CAO THỦ CỜ TƯỚNG ĐẦU TIÊN TRONG LÀNG CỜ MIỀN NAM VIỆT NAM
1- NGUYỄN VĂN NGOAN (1900 – 1966)
Đầu thế kỷ 20, một danh thủ Cờ Tướng nổi bật ở miền Nam Việt Nam là Nguyễn Văn Ngoan, mà tên thường gọi là Ba Quang. Xuất thân từ tỉnh Vĩnh Long, nhưng theo gia đình lánh nạn ở xứ Gò Công vì dính líu đến tổ chức Thiên Địa Hội, một đảng phái chống nô lệ Pháp thuộc.Ba Quang được mô tả như một chàng nghệ sĩ đa tài. Dẫu đã là một thợ kim hoàn nổi tiếng, nhưng còn là một tài tử đờn ca, thường kết bạn với giới nghệ sĩ cải lương. Đến nỗi khi hai đứa con gái xin đẹp lớn lên, ông cho theo đoàn hát, trở thành hai nghệ sĩ Thanh Loan và Thanh Hương nổi tiếng một thời. Từ khi lên 8, Nguyễn Văn Ngoan đã sớm làm quen với những con cờ, và khi chưa đầy 20, đã là một danh thủ nổi tiếng. Khi thủ đô Sài-gòn tổ chức giải Cờ Tướng lần đầu tiên, lúc 27 tuổi, Nguyễn Văn Ngoan xuất hiện giữa chốn đấu trường, và oanh liệt chiếm giải khôi nguyên 1927. Từ đó tên tuổi vang lừng khắp nước.
Thời bấy giờ nhiều tay Cờ nổi danh từ Trung quốc thường sang Việt Nam
giang hồ kiếm sống, như Chung Trân, Tăng Triển Hồng, Triệu Khôn…Và với
tánh tình cởi mở dễ kết bạn, cùng với nhiệt thành, khiêm cung học hỏi từ
những danh thủ đó, kỳ nghệ của Ba Quang đạt đến trình độ thượng thừa.
Một trong những thế trận từ cuốn Mai Hoa Phổ là chiêu thức “Bình Phong
Mã” mà Ba Quang dày công tập luyện, đã trở thành độc chiêu nổi tiếng của
ông.
Dẫu có khi vung tay vào những cuộc đánh cờ độ để ăn tiền, nhưng bản
chất đạo đức và tính nhu mì, ưa học hỏi, Nguyễn Văn Ngoan luôn được giới
yêu Cờ tôn là người “trọng nghĩa khinh tài”. Trong nhóm ba người kết
bạn “Đào Viên” gồm có ông và Hà Quang Bố, Nguyễn Thành Hội, Nguyễn Văn
Ngoan được ví là anh cả Lưu Huyền Đức, còn Hà Quang Bố là Quan Vũ và
Nguyễn Thành Hội kể là Trương Phi. Cho đến nay, chiêu thức “Bình Phong Mã, khí Mã hãm Xa” vẫn còn được kể là tuyệt chiêu của Ba Quang, Nguyễn Văn Ngoan!
2- NGUYỄN THÀNH HỘI (1905-1956)

Nguyễn Thành Hội là một trong hai người em kết nghĩa vườn đào của danh thủ Nguyễn Văn Ngoan. Ông người tỉnh An Giang, nhưng lớn lên ở Tây Ninh. Mặt mày đen đúa, rất nong tính nên người ta thường gọi là Trương Phi. Nhà nghèo, sớm vào đời để kiếm miếng cơm manh áo, nên Nguyễn Thành Hội dùng kỳ nghệ của mình làm kế sinh nhai bằng cách đánh dộ. Ông chu du khắp nơi trên đất nước, gặp gỡ nhiều cao thủ nên danh tiếng vang lừng.

Nguyễn Thành Hội là một trong hai người em kết nghĩa vườn đào của danh thủ Nguyễn Văn Ngoan. Ông người tỉnh An Giang, nhưng lớn lên ở Tây Ninh. Mặt mày đen đúa, rất nong tính nên người ta thường gọi là Trương Phi. Nhà nghèo, sớm vào đời để kiếm miếng cơm manh áo, nên Nguyễn Thành Hội dùng kỳ nghệ của mình làm kế sinh nhai bằng cách đánh dộ. Ông chu du khắp nơi trên đất nước, gặp gỡ nhiều cao thủ nên danh tiếng vang lừng.
Vào năm 1933, công ty Mỹ An tại Sài-gòn mở một cuộc tranh tài Cờ
Tướng, lấy tên “Vô địch Nam Kỳ”. Nguyễn Thành Hội, lúc đó 28 tuổi, đã
ghi danh và đánh bại quần hùng như chẻ tre. Vào chung kết ông gặp Nguyễn
Văn Khảm, thắng vẻ vang, đoạt chức vô địch trong tiếng vỗ tay vang dội.
Dùng cờ như mục tiêu kiếm tiền, một mình nam chinh bắc tiến. Dù là
chân trời góc biển, hễ nghe đến ai chơi Cờ giỏi, ông đều lặn lội tìm
gặp, thách đấu để thử tài và cũng để kiếm sống qua ngày. Là người miền
Nam, nhưng ông đã nhiều phen ra miền Trung, ba lần xông ra đất Bắc, từng
gặp gỡ và giao đấu với nhiều người, như danh thủ Nguyễn Thi Hùng, vô
địch miền Bắc Đặng Đình Yến v.v…
Nguyễn Thành Hội theo chủ trương thực dụng, dùng Cờ Tướng làm phương
tiện mưu sinh, nên người ta thường nói ông “trọng tiền hơn trọng nghĩa”,
hoặc “cầu lợi chẳng cầu danh”. Dầu vậy làng Cờ miền Nam vẫn tôn trọng
kỳ nghệ, gọi ông là Giáo Hội, mặc dù ông không phải là một nhà dạy học
bao giờ.
Mùa đông năm 1956, người ta nhận được tin buồn: “Cựu vô địch cờ Tướng
Nam Kỳ, sau một cơn bạo bệnh đã vĩnh viễn từ giã làng cờ, để lại bao
thương tiếc cho mọi người”.
Cũng như nhiều tay cờ giang hồ khác, ông tranh giải thì ít mà cáp độ
đánh cá thì nhiều vì vậy tư liệu sự nghiệp cờ của ông để lại rất ít. Ông
có cùng đệ tử Thái Sanh Bính soạn quyển “Cờ Tướng Việt Nam” hướng dẫn
chơi Pháo đầu phá Đơn đề Mã với phương án ăn Mã đội rất lý thú và hiệu
quả. Đó là một đóng góp rất đáng trân trọng của một danh thủ tiền bối.
Hà Quang Bố thường được giới hâm mộ Cờ gọi là Giáo Bố. Tự nhận mình
là hậu duệ của người Minh Hương. Sinh ra và lớn lên ở Rạch Giá, lập gia
đình dời về sinh sống tại Cà Mau. Ông nội và cha đều là những tay chơi
Cờ lão luyện. Khi Hà Quang Bố lên 10 đã được cha ông tận tình chỉ dạy kỳ
nghệ. Đến năm 15 tuổi đã thành nhà vô địch trẻ tại huyện Long Mỹ, Rạch
Giá.
Năm 1931, lúc 24 tuổi, xin được việc làm kinh lý cho khách sạn tại
Sài-gòn. Và đây là khởi điểm cho một danh tiếng lẫy lừng. Ông mang theo
một cơn bão nhỏ, thổi vào làng cờ thành phố. Đầu tiên ông đến điểm chơi
Cờ ở ga xe lửa Saigon, khiêu khích và đánh bại cao thủ giang hồ Nguyễn
Văn Lai. Kế tiếp làm kinh hồn những danh thủ ở Phú Nhuận, Đa-kao, Bình
Tây, Xóm Củi. Nghe danh đại cao thủ người Hoa tại Cầu Kiệu là Trần Tựu
oai nghi nhiều người nể phục, Hà Quang Bố tìm đến xin thử tài và đã làm
cho Trần Tựu gục ngã. Tại đây ông gặp Nguyễn Văn Ngoan, kết nghĩa đệ
huynh. Hai người thường rủ nhau đi khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh tìm gặp nhiều
cao thủ để thử tài. Nhờ đó mà kỳ nghệ và nội lực đạt đến tột đỉnh. Năm
1935, kiện tướng Trung quốc là Triệu Khôn sang Saigon làm mưa làm gió,
không ai đối thủ, nhưng khi gặp Hà Quang Bố đả đành đại bại. Tiếng tăm
giáo Bố từ đó lẫy lừng.
Một giai thoại xảy ra vào năm 1943. Sòng bạc Đại Thế Giới tổ chức một
giải Cờ. Phần thưởng giải vô địch là một bức trường rất đẹp. Và giáo
Hội (Nguyễn Thành Hội) đã chiếm giải. Khi giải thưởng mới vừa phát xong,
trên tay giáo Hội còn cầm bức trướng, thì giáo Bố từ đâu đi tới, đề
nghị một trận thư hùng danh dự với điều kiện: nếu giáo Hội thắng, giáo
Bố sẽ chung 100 đồng bạc (bây giờ tương đương với khoảng 300 đô Úc). Cón
nếu thua, thì giáo Hội phải đưa bức trướng cho giáo Bố giữ. Là người
“trọng tiền tài hơn danh dự”, giáo Hội đồng ý ngay. Kết quả, sau hai
ván, một thua và một hòa, giáo Hội mất bức trướng về tay Hà Quang Bố.
Năm 1948, Sài Gòn lại tổ chức giải “vô địch Nam kỳ” và Hà Quang Bố đã
đoạt chức vô địch một cách xứng đáng. Năm 1949, khi ông vẫn còn phụ
trách kỳ đài thì bệnh lao trở nặng và không lâu sau đó một ngôi sao sáng
của làng cờ miền Nam vụt tắt khi tuổi đời mới được 42.
4- HỨA VĂN HẢI (1918-1944)
Hứa Văn Hải sinh tại Sa-đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Là con của cụ Hứa Văn Nhiệm, có tổ tiên là người Phúc Kiến, gốc Chương Châu bên Trung quốc. Từ nhỏ, Hứa Văn Hải đã tỏ ra thông minh, có trí nhớ lạ kỳ. Năm 15 tuổi bắt đầu làm quen với Cờ cùng một người em là Hứa Văn Tài và một người bạn tên Tạ Khánh Toàn. Chỉ một năm sau, Hải đã đạt đến trình độ kiện tướng.
Lúc bấy giờ có một cao thủ từ Trung quốc sang Việt Nam. Trong một dịp
may, Hứa Văn Hải được gặp. Lúc đó Hải chỉ mới 13-14 tuổi nhưng Triệu
Khôn tỏ ra mến mộ một cậu bé có thiên tư, nên tận tình chỉ dạy. Hải đã
biểu diễn nhiều chiêu thức thông minh, biến hóa, làm Triệu tiên sinh rất
đẹp lòng và nhận Hải làm đệ tử, truyền cho nhiều bài học quí giá. Ngoài
cơ may hiếm có nầy, Hải còn là người luôn chịu khó trau giồi, học hỏi
qua sách báo, nên công lực càng ngày càng thâm hậu.
Vào dịp Tết Quí Mùi (1943) tại Gò Công có tổ chức “Giải Vô Địch Kỳ
Vương” nhưng chỉ giành riêng cho bốn đại cao thủ gọi là “tứ hùng”:
Nguyễn Văn Ngoan, Nguyễn Thành Hội, Hà Quang Bố và Hứa Văn Hải. Kỳ vương
Hải đã xuất thần, áp đảo quần hùng, đoạt chức vô địch rất oanh liệt.
Cũng vào năm đó, dịp tết Trung Thu, sòng bạc “Đại Thế giới” tổ chức giải
vô địch Nam Kỳ. Hứa văn Hải tham dự, đã giành chức quán quân trong niềm
cảm phục của mọi người.
Bên cạnh những dịp tranh tài chính thức, Hải thường ôm bàn cờ đi khắp
nơi đánh độ, làm phương tiện sống qua ngày. Hào kiệt Nam Kỳ Lục Tỉnh
đều ngưỡng mộ, tôn là bậc kỳ vương, dù tuổi đời của Hải còn rất trẻ. Và
vì trình độ cờ quá cao, đánh với ai cũng phải chấp nước, chấp con, bởi
đó cần phải lao tâm khổ trí để tìm cách thắng. Từ những trận cờ thâu
đêm, thiếu ngủ, ăn uống thất thường, Hải mắc phải bệnh lao, không đủ
điều kiện chạy chữa, càng ngày càng nặng. Cuối năm 1944, kỳ vương biết
mình không qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, đã trở về quê làng ở Tân Qui và
an nghỉ giấc ngàn thu nơi đây ở tuổi đời 26, để lại bao thương tiếc cho
làng cờ miền Nam.
5- PHẠM VĂN NGỌC (1916 – 1950)
Thủ lãnh nhóm Đồng Tâm
Danh kỳ Phạm Văn Ngọc sinh năm 1916 (tên thật là Phạm Ngọc Anh),
thường được anh em gọi tên thân mật là “anh Tư Ngọc” xuất thân từ
Gò-công. Ông là bào huynh của kỳ thủ Phạm Văn Sáng và là thân sinh của
nhà cựu vô địch Sài-gòn là Phạm Tấn Hòa. Nhà nghèo, lại mồ côi cha, ông
rời trường khi vừa học xong bậc tiểu học, ra đời tìm kiếm mưu sinh. Làm
quen với Cờ lúc 14 tuổi, lại may mắn cùng quê và quen biết với danh kỳ
Nguyễn Văn Ngoan, được chỉ dạy tận tình nên tài nghệ của ông tiến bộ
vượt bực. Hai anh em của ông cùng nhau học hỏi, nghiên cứu thế trận, nên
mức độ tiến triển rất nhanh.
Năm 1938, hai anh em rủ nhau lên Sài-gòn kiếm sống. Thuê căn nhà tại
số 86 đường Hàm Nghi mở tiệm hớt tóc và bán nón nĩ, lấy tên là “Tiệm hớt
tóc Đồng Tâm”. Đây là bước ngoặc trong sự nghiệp cờ tướng của Phạm Văn
Ngọc. Để tạo hấp dẫn cho tiệm tóc, hai người thướng bày cờ tướng cho
khách chơi trong lúc chờ đợi, từ đó nhiều tay cờ gần xa đến đây trổ tài,
giải trí, càng lúc càng đông. Chẳng bao lâu “Đồng Tâm” nghiễm nhiên trở
thành một “câu lạc bộ” Cờ Tướng nổi tiếng của đất Sài thành. Những danh
thủ như Nguyễn Văn Ngoan, giáo Hội, giáo Bố, Hứa Văn hải đều thường
xuyên xuất hiện. Và cũng nhờ có dịp tu luyện với nhiều tay cự phách mà
trình độ Cờ của Phạm Văn Ngọc trở nên vượt trội. Vào tiết Trung thu
1943, sòng bạc Đại thế giới tổ chức giải vô địch Sài-gòn, Hứa Văn Hải
giành chức quán quân, và Phạm Văn Ngọc đoạt giài Á quân. Làng cờ lúc bấy
giờ rất khâm phục.
Khi cách mạng tháng 8 xảy ra, Phạm Văn Ngọc gia nhập phong trào Việt
Minh và mất trong một trận giao tranh. Con của ông, Phạm Tấn Hòa, sau
nầy cũng đã là một nhà vô địch!
6- PHẠM VĂN SÁNG (1918 – 1992)
Người đi Cờ nhanh như gió
Ông là bào đệ của danh thủ Phạm Văn Ngọc, và là thành viên sáng lập
của câu lạc bộ “Đồng Tâm” hay còn gọi là nhóm Đồng Tâm. Hai anh em của
ông kết thân với Thái Văn Hiệp tạo thành trụ cột của nhóm, nên ba cao
thủ nầy được tôn vinh là “Đồng Tâm tam kiệt”. Giữa những năm1954, nhóm
Đồng Tâm được xây dựng củng cố lại, ngoài năm Sáng, ba Hiệp còn có thêm
các cao thủ Nguyễn Đình Lạc, Phạm Thanh Mai, Lê Văn Mầu và Trần Văn Kỳ,
nhằm đối đầu trong nghệ thuật Cờ Tướng với nhóm Tinh Võ gồm Trần Dụ
Tham, Trần Mỹ, Tất Kiên Dương, Lê Bỉnh và Kỳ Triển Bàng.
Anh của ông, Phạm Văn Ngọc, thiên về tấn công ào ạt như vũ bão, Thái
Văn Hiêp thiên về phòng thủ chặt chẽ, còn phong cách của Phạm Văn Sáng
rất linh hoạt, vừa công vừa thủ, mỗi nước đi luôn tỏ ra đầy sáng tạo.
Ông rất thích nghiên cứu cờ thế, vì vậy hầu hết những ván cờ thế lưu
truyền nổi tiếng, ông đều nắm rất vững các nước biến, đồng thời phát
hiện nhiều chiêu thức mới.
Mùa xuân năm 1949, hội thể thao Tinh Võ ở Chợ Lớn tổ chức một giải Cờ
lấy tên là “Giải vô địch Sài Gòn – Chợ Lớn”, Phạm Văn Sáng ghi tên tham
dự và đã oanh liệt chiến thắng các cao thủ, đoạt lấy Cúp vàng danh dự.
Chính ông là người có công nuôi dưỡng và dìu dắt Phạm Tấn Hòa nối tiếp
truyền thống gia đình đi vào nghệ thuật cờ và đạt đến đỉnh vinh quang.
Ông là người khiêm tốn, vui vẻ, hoạt bát nên mọi người trong làng cờ đều
quý mến. Ông mất năm 1992, sau một cơn bạo bịnh, thọ 74 tuổi.
7- THÁI SANH BÍNH (1915 – 1972)
Danh thủ Thái Sanh Bính dù không có nhiều thành tích nổi danh, nhưng
nhiều người biết tiếng vì ông có công đóng góp cho làng Cờ miền Nam
trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
Thái Sanh Bính thường được biết đến với tên thường gọi là Bảy Ngài.
Xuất thân từ tỉnh Chợ Lớn cũ. Là một người có nhiều năng khiếu từ thuở
nhỏ, nên những môn chơi như “Cầm, Kỳ, Thi, Họa” đều biết đến. Năm 20
tuổi, ông đã xưng hùng xưng bá tại huyện Cân Đước bằng tài nghệ Cờ Tướng
của mình. Năm 1935, lúc 20 tuổi, ông đã có một trận thư hùng với nhà vô
địch tại Tân An là danh thủ Nguyễn Văn Thành, và đã oanh liệt chiến
thắng với tỉ số 1 thắng 1 hòa, gây tiếng vang lừng lẫy. Vào năm 1948, ở
tuổi 33, danh tiếng lại vang dội khi ông đánh bại vô địch tỉnh Sa-đéc là
kỳ thủ Tư Hy. Mùa Xuân năm 1949 Hội Tinh Võ tổ chức một giải Cờ lớn,
Thái Sanh Bính hăng hái ghi danh tham dự. Vào giai đoạn đầu ông đã tạo
thành tích hạ được cao thủ của tỉnh Gia-định là Nguyễn Đình Lạc, nhưng
khi vào vòng trong, ở những ván có tính cách quyết định, ông lại bị cảm,
cơ thể và tinh thần mệt mỏi, nên đành chịu thất bại.
Ông kết thân với một trong những đại danh thủ đương thời là Giáo Hội
(Nguyễn Thành Hội). Từ năm 1950 đến khi Giáo Hội qua đời, tình bằng hữu
giữa hai người rất gắn bó. Nhưng có một vết đen trong sự nghiệp Cờ của
ông, là việc ông liên kết với nhà giáo Phạm Văn Khánh (người thường
xuyên tổ chức những giải thi đấu) để sắp xếp kết quả có lợi cho riêng
mình, nên mang nhiều tai tiếng.
Công trạng lớn nhất của danh kỳ Thái Sanh Bính, là cùng với Nguyễn
Thành Hội hợp soạn quyển “Việt Nam Tượng Kỳ Phổ”, và cùng cao thủ Lý Anh
Mậu xuất bản quyển “Cờ Tướng”, góp phần không nhỏ vào việc đưa làng Cờ
miền Nam đến giai đoạn phát triển.
Người yêu Cờ Thái Sanh Bính mất năm 1972 sau một cơn tai biến mạch máu não, hưởng dương 58 tuổi.
8- THÁI VĂN HIỆP (1919 -?)
Danh kỳ Thái Văn Hiệp thường được gọi thân mật là “Thầy Ba Hiệp”, vì
ông nhận rất nhiều đệ tử để truyền nghề. Quê quán có lẽ từ Gò Vấp,
Gia-định. Khi cửa hiệu hớt tóc Đồng tâm của anh em kỳ thủ Phạm Văn Ngọc
và Phạm Văn Sáng mở ra, thì Thái Văn Hiệp thường lui tới đánh Cờ. Lâu
ngày họ thành bạn thân và có lần Thầy Ba Hiệp đưa vợ con đến câu lạc bộ
nầy tá túc. Và từ đó ông cùng với anh em họ Phạm trở thành nòng cốt của
Nhóm Đồng Tâm.
Là một người rất say mê học hỏi từ sách vở Cờ tướng, dần dà hình
thành một lý thuyết ra quân mà ông luôn tuân thủ. Ông tu luyện từ những
pho sách cổ, như Ma Hoa Phỏ, Quất Trung Bí, Thạch Dương Di Cục và nghiên
cứu những cách xuất quân của những kỳ thủ trong nhóm “tứ đại thiên
vương” gồm có Châu Đức Dụ, Chung Trân và Tạ Hiệp Tốn. Từ khi ông có
trong tay quyển kỳ phổ “Tượng Hí Câu Huyền” của Châu Đức Dụ biên soạn,
ngày đêm nghiền ngẫm rất tâm đắc, công lực tiến triễn rất nhiều, có thể
liệt vào hàng các danh thủ đầu đàn của làng Cờ miền Nam.
Từ cuối thập niên 1960, do tuổi cao, mà cũng có thể vì trình độ Cờ
tướng thế giới đang chuyển mình vượt bực, sức Cờ của ông bắt đầu sa sút.
Những thế trận mà ông dày công tu luyện không còn sắc bén nữa, lớp
người trẻ ào ạt tiến lên, uy hiếp trực tiếp vào vị trí đầu đàn của ông.
Nhưng dầu vậy trước sau làng Cờ Sài-gòn vẫn luôn kính trọng và đánh giá
cao sự nghiệp đóng góp của ông. Những danh thủ đương đại như Nguyễn Văn
Tòng, Mạch Hữu Nghĩa, Trần Ngọc Lâu, Mai Thanh Minh và nhiều người nữa
luôn tự nhận mình là đệ tử của “Thầy Ba Hiệp”!
9- NGUYỄN ĐÌNH LẠC (1925 – 1959)
Danh thủ Nguyễn Đình Lạc nguyên quán thị xã Tân An, nhưng lớn lên và
nổi danh tại Bà Chiểu (thuộc tỉnh Gia-định). Ông là một tú tài trước năm
1945, làm nhân viên kế toán cho một công ty thương mại. Là người rất
bận rộn với công việc làm ăn, Nguyễn Đình Lạc vẫn luôn yêu mến và giành
nhiều thời gian cho việc nghiện cứu Cờ. Thuở còn là học sinh, thường
xuất hiện trong chốn giang hồ, bất cứ ai khiêu khích, ông đều sẵn sàng
ứng chiến và thường là người chiến thắng. Các danh thủ đàn anh như Phạm
Văn Sáng, Thái Văn Hiệp cảm mến kỳ nghệ, mời Nguyễn Đình Lạc tham gia
nhóm Đồng Tâm. Từ đó ông thường lui tới với anh em trong nhóm, học tập,
trao đổi kinh nghiệm, trình độ Cờ trở nên sâu sắc, công lực ngày càng
thâm hậu.
Ban đầu Nguyễn Đình Lạc theo quan điểm “dĩ nhu thắng cương”, chuyên
về thế thủ, nên những trận Cờ kéo dài rất lâu. Nhưng về sau, ông học với
“Thầy Năm Sáng”, chịu ảnh hưởng tấn công, dùng Pháo Đầu làm vũ khí
chiến lược, những ván Cờ trở nên linh hoạt, kết thúc nhanh và nhiều hứng
thú. Năm 1951, ông tham dự Giải Cờ do hãng rượu Martell tổ chức và
giành chức quán quân. Từ đó, ông luôn tìm kiếm những danh thủ để “lãnh
giáo”. Bất cứ đánh với ai, ông cũng tỏ ra là người đảm lược, thường
chiếm thế thượng phong.
Tuy nhiên, tựu trung Nguyễn Đình Lạc luôn được xem là tay Cờ tài tử.
Xem Cờ như một thú giải trí tao nhã, một nghệ thuật cao quý, đáng đam
mê, không phải là phương tiện kiếm sống. Làng Cờ ai cũng tỏ ra quí trọng
vì tính ông hòa nhã, điềm đạm, nói năng từ tốn, không làm mất lòng ai.
Đặc biệt rất chân tình với anh em. Ai hỏi điều gì cũng hết lòng chỉ bảo,
không dấu giếm, nên gần gủi với mọi người.
Năm 1954, vừa mới 29 tuổi, ông có dấu hiệu bệnh lao, buộc phải ngưng
đeo đuổi việc chơi Cờ. Vì thế công lực nhiều phần giảm sút. Mùa Thu
1958, sau cuộc đấu giao hữu với kỳ vương Lý Chí Hải, về nhà bệnh càng
trầm trọng. Và chỉ một năm sau, ông lặng lẽ giã từ anh em, khi tuổi đời
chỉ vừa 34. Thật là một mất mát quá sớm.
Bạn của nàng tiên nâu
Lý Anh Mậu là em ruột của nhà văn nổi tiếng Lý Văn Sâm. Xuất thân từ
huyện Tân Uyên, thuộc tỉnh Biên Hòa. Thuở còn là thanh niên ông đã được
nổi danh là “nhà vô địch Biên Hòa”, và thường được anh em gọi tên thân
mật “Lý Anh Mô”. Sau năm 30 tuổi, ông dời về sinh sống tại Bà Chiểu
thuộc tỉnh Gia-định, nên thường được xem là cao thủ thành Gia-định.
Ngày xưa nhà thuốc Võ Văn Vân thường in trong tập quảng cáo những ván
Cờ dịch từ sách Quất Trung Bí và Mai Hoa Phổ để làm chiêu câu khách. Và
cậu bé Lý Anh Mậu đã theo dõi, học tập từ những trang nầy, sớm lãnh hội
những tinh hoa của kỳ nghệ, nhanh chóng trở thành một trang thiếu niên
cao cờ. Đến nỗi khắp đất Biên Hòa không ai đương cự nổi. Đầu năm 1944,
lúc 18 tuổi, bầu nhiệt huyết của tuổi thanh xuân đã đưa Lý Anh Mậu xuống
Sài-gòn tìm gặp Hứa Văn Hải để thử tài. Hải rất mến mộ tài năng, đem
nhiều tài liệu từ lâu mà mình yêu quí, giao cho Mậu với lòng mong muốn
Mậu sẽ trở thành một kỳ thủ thống lãnh làng Cờ. Đây là một việc làm của
Hứa Văn Hải mà ai ai cũng kinh ngạc, vì chưa bao giờ Hải làm cho một
người nào.
Năm 1948, Lý Anh Mậu tham dự đánh lôi đài ở sòng bạc Đại Thế Giới và
được Hà Quang Bố dạy cho nhiều bài học quí báu. Từ đó giáo Bố rất thương
mến, thâu nhận Mậu làm đệ tử, tận tình chỉ dạy. Trước khi qua đời Giáo
Bố đã giới thiệu Lý Anh Mậu thay mình làm đài chủ, thủ đài cho sòng bạc
Đại Thế Giới mãi đến năm 1954 mới thôi. Trong 5 năm thủ đài đó, Lý Anh
Mậu đã rút tỉa nhiều kinh nghiệm, đúc kết nhiều bài học và hình thành
quan điểm xem Cờ là một nghệ thuật cao quí, đòi hỏi người chơi một nhân
sinh quan tốt đẹp, chiến thắng đối phương là do kỳ nghệ, chứ không phải
bằng thủ đoạn tầm thường. Ông đã cố gắng đưa lý luận vào Cờ, mà ông gọi
là “kỳ lý”.
Đáng tiếc, khi được Đại Thế Giới trả lương hậu hĩnh, ông đã sa vào
nàng tiên nâu. Á phiện đã làm hư con người, nhiều lần ông đã đi giang hồ
kiếm sống và dùng mọc-phin chích cho thỏa cơn ghiền. Cả cuộc đời giành
cho Cờ và nàng tiên nâu, không lập gia đình, không con cái. Ông mất vào
cuối năm 1978 sau một cơn tai biến mạch máu não, hương dương 53 tuổi.
“Bàn Cờ Nhỏ” ông đã thành toại mà “Bàn Cờ Lớn” của cuộc đời ông đã đánh
rơi!
Lý Anh Mậu nhận nhiều học trò, nhưng đóng góp lớn nhất cho hậu thế là
hơn 10 quyển sách mà ông đã biên soạn nhằm phát huy nghệ thuật của một
môn chơi trí tuệ.
NHẬN XÉT: